Truyện cổ tích cho bé: Tấm Cám
Ngày xửa ngày xưa, có hai chị em cùng cha khác mẹ. Người chị tên là Tấm còn em là Cám. Mẹ của Tấm đã mất từ sớm, còn cha cũng qua đời sau đó mấy năm. Để lại Tấm ở với dì ghẻ là mẹ Cám.
Bà mẹ kế vô cùng cay nghiệt và độc ác. Bà ta bắt Tấm phải làm hết những công việc nặng nhọc trong nhà. Ngược lại, Cám lại vô cùng được chiều chuộng, không phải làm bất cứ việc gì.
Một hôm, bà mẹ đưa cho hai chị em, mỗi người một cái giỏ để ra đồng xúc tép và hứa rằng: “Nếu đứa nào bắt được đầy giỏ tép thì sẽ được thưởng một cái yếm đỏ”. Nghe lời của mẹ, Tấm chăm chỉ siêng năng nên chẳng mấy chốc mà đã được một giỏ đầy vừa cá vừa tép. Còn Cám thì mải chơi, dạo hết từ ruộng nọ sang ruộng kia, hái hoa bắt bướm nên mãi mà chẳng bắt được gì.
Thấy Tấm đã bắt được một giỏ đầy, Cám bảo chị:
- Chị Tấm ơi, chị Tấm! Đầu chị lấm, chị hụp cho sâu, kẻo về mẹ mắng.
Nghe Cám nói vậy, Tấm tin là thật nên liền xuống ao tắm rửa cho sạch. Nhân cơ hội đó, Cám liền trút hết tép của Tấm vào giỏ của mình rồi chạy nhanh về nhà. Khi lên bờ thấy chỉ còn lại chiếc giỏ trống trơn, Tấm ngồi xuống và bưng mặt khóc. Nghe thấy tiếng khóc của Tấm, ông Bụt hiện lên và hỏi:
- Tại sao con khóc?
Tấm đem hết sự tình kể lại cho Bụt nghe. Nghe xong, Bụt bảo rằng:
- Thôi con hãy nín đi! Bây giờ, con hãy thử nhìn vào giỏ xem còn có gì nữa không?
Tấm liền nhìn vào giỏ và phát hiện ra trong giỏ còn lại một con cá bống. Bụt lại cất lời tiếp:
- Con hãy đem con cá bống ấy về rồi thả nuôi trong giếng. Mỗi bữa con chừa lại một bát cơm cho bống ăn. Mỗi lần cho ăn, con nhớ gọi thế này:
Bống bống, bang bang
Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta
Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người
Nói xong thì Bụt biến mất. Thế là từ đó, nghe theo lời dặn của Bụt, Tấm thả cá bống xuống giếng và cho ăn hằng ngày. Mỗi khi nghe tiếng Tấm gọi, bống liền bơi lên mặt nước và ăn những hạt cơm của Tấm ném xuống. Chẳng mấy chốc mà bống lớn nhanh như thổi.
Ngày nào cũng thấy Tấm cứ sau bữa ăn đều mang cơm ra giếng nên mụ dì ghẻ sinh nghi nên bảo Cám đi rình. Cám sau khi nghe thấy Tấm gọi bống thì kể lại hết cho mẹ nghe. Tối hôm ấy, mụ dì ghẻ ngọt ngào bảo với Tấm rằng:
- Con ơi con! Làng đã bắt đầu cấm đồng rồi đấy. Mai con đi chăn trâu, phải chăn đồng xa, chớ chăn đồng nhà, làng bắt mất trâu.
Nghe theo lời dặn, ngày hôm sau Tấm đưa trâu đi ăn thật xa. Ở nhà, mẹ con Cám đem cơm ra giếng và gọi bống lên ăn giống như Tấm gọi. Khi bống vừa ngoi lên mặt nước, mẹ con Cám liền bắt lấy bống rồi đem về nhà làm thịt.
Đến chiều sau khi dắt trâu về, Tấm ăn xong vẫn mang bát cơm để dành ra giếng nhưng gọi mãi không thấy bống ngoi lên như mọi khi. Cuối cùng, chỉ thấy cục máu nổi lên trên mặt nước. Thấy vậy, Tấm lại òa lên khóc nức nở. Bụt lại hiện lên và hỏi:
- Con làm sao lại khóc?
Tấm đem sự tình kể lại. Nghe xong, Bụt bảo:
- Cá bống đã bị người ta ăn thịt mất rồi. Thôi, con đừng khóc nữa! Về nhà, con nhặt xương cá, bỏ vào bốn cái lọ rồi đem chôn xuống dưới bốn chân giường con nằm.
Tấm trở về và đi tìm xương bống theo lời Bụt. Nhưng tìm khắp các nơi mà không thấy đâu cả. Bỗng con gà ở đâu chạy ra và bảo Tấm:
- Cục ta cục tác! Cho ta nắm thóc, ta bới xương cho!
Sau khi được Tấm ném thóc cho, gà chạy vào bếp bới một lúc thì thấy xương ngay. Tấm nhặt lấy, bỏ vào lọ và đem chôn dưới chân giường giống như lời Bụt dặn.
Không lâu sau đó, nhà vua mở hội trong mấy đêm ngày. Già trẻ, trai gái đều xúng xính quần áo mới nô nức đi xem hội. Hai mẹ con Cám cũng sắm sửa quần áo đẹp để đi trẩy hội. Tấm xin được đi cùng thì mụ dì ghẻ nguýt dài rồi lấy một đấu gạo trộn lẫn với một đấu thóc, bảo Tấm:
- Khi nào nhặt được riêng gạo và thóc ra hai đấu thì mới được đi xem hội.
Nói xong, hai mẹ con Cám lên đường đi hội. Cảm thấy tủi thân, Tấm khóc nức nở. Bụt lại hiện lên và hỏi:
- Làm sao con khóc?
Tấm chỉ vào cái thúng và thưa với Bụt:
- Dì bắt con phải nhặt riêng thóc ra thóc, gạo ra gạo rồi mới được đi xem hội. Nhưng lúc con nhặt xong thì hội đã tan rồi, không còn gì mà xem nữa ạ.
Bụt nghe xong thì liền sai một đàn chim sẻ xuống sân nhặt thóc và gạo giúp Tấm, chỉ một loáng là xong. Nhưng tấm lại nức nở khóc vì không có quần áo đẹp để đi hội. Bụt lại bảo rằng:
- Con hãy đào những cái lọ xương bống đã chôn ngày trước lên thì sẽ có đủ thứ cho con trẩy hội.
Tấm vâng lời và đào các lọ lên. Lọ thứ nhất mở ra là một bộ váy áo tuyệt đẹp, lọ thứ hai là một đôi hài thêu, lọ thứ ba là một con ngựa nhỏ xíu, nhưng khi vừa đặt xuống đất, con ngựa bỗng chốc biến thành ngựa thật. Lọ cuối cùng là một yên cương vững chắc. Tấm vui mừng không xiết, nhanh chóng thay đồ rồi lên đường vào kinh.
Ngựa phóng một chốc đã đến kinh đô. Thế nhưng, lúc đi qua một cây cầu đá, Tấm lỡ đánh rơi một chiếc hài xuống nước, không làm cách nào lấy lên được.
Khi đoàn của nhà vua đi qua cầu, hai con voi dẫn đầu đoàn lại kêu rống lên và nhất quyết không chịu đi tiếp. Thấy lạ, vua bèn sai quân lính xuống dưới xem xét. Sau một hồi, họ mò được một chiếc hài thêu. Nhà vua ngắm nghía chiếc hài kĩ càng rồi hạ lệnh thông báo tất cả đàn bà con gái đi trẩy hội ướm thử, nếu ai đi vừa chiếc hài này thì vua sẽ lấy làm vợ.
Vậy là các bà, các cô chen nhau đến chỗ thử giày làm cho đám hội càng thêm náo nhiệt. Nhưng chẳng ai đi vừa cả. Mẹ con Cám cũng qua thử nhưng không được. Thấy Tấm cũng đến, Cám nói với mẹ:
- Mẹ ơi, ai như chị Tấm cũng đi thử hài kìa!
Mụ dì ghẻ tỏ ý coi thường nói:
- Chuông khánh còn chẳng ăn ai, nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre!
Thế nhưng khi Tấm đặt chân vào hài thì vừa như in. Nhà vua vô cùng vui mừng và lập tức rước nàng vào cung.
Mặc dù sống trong hoàng cung rất sung sướng nhưng Tấm vẫn không quên ngày giỗ cha. Tới ngày giỗ cha, nàng xin phép vua trở về nhà. Vốn đã đố kị với cuộc sống an nhàn của Tấm, nay thấy Tấm về thì mẹ con Cám lại bùng lên lòng ghen ghét, bày mưu giết Tấm.
Mụ dì ghẻ bảo Tấm:
- Trước đây con quen trèo cau, con hãy trèo lên xé lấy một buồng cau để cúng bố.
Tấm vâng lời trèo lên cây cau, mụ dì ghẻ ở dưới cầm dao đốn gốc. Thấy cây rung chuyển, Tấm hỏi :
- Dì làm gì dưới gốc thế ?
- Gốc cau lắm kiến, dì đuổi kiến cho nó khỏi lên đốt con.
Cây cau đã đổ, Tấm ngã xuống ao chết. Mụ dì ghẻ cho con mình mặc quần áo của Tấm vào cung, nói dối với vua rằng Tấm không may bị rơi xuống ao chết đuối, nay đưa em vào để thế chị. Nhà vua vô cùng giận dữ nhưng không nói lời nào.
Tấm chết thì hòa thành chim Vàng Anh, bay đến vườn thượng uyển. Một lần Cám đang giặt áo cho vua, chim liền đậu trên cành cây và hót:
“Giặt áo chồng tao thì giặt cho sạch
Phơi áo chồng tao phơi lao phơi sào
Chớ phơi bờ rào rách áo chồng tao”
Rồi chim Vàng Anh lại bay vào cung vua hót líu lo rất vui tai. Vua đi đâu, chim bay đến đó. Đang lúc nhớ nhung Tấm không nguôi, thấy chim quyến luyến theo mình, vua bảo:
- Vàng ảnh vàng anh, có phải vợ anh, chui vào tay áo
Thấy thế, chim Vàng Anh bay lại rúc vào tay áo của nhà vua. Từ đó, vua chỉ mải mê yêu quý Vàng Anh, còn sai làm một cái lồng bằng vàng cho chim. Cám tức tối về mách mẹ. Mụ dì ghẻ bảo Cám bắt chim làm thịt rồi lấy lý do nói dối vua. Thực hiện theo lời mẹ, Cám làm thịt chim nhân lúc vua đi vắng rồi đem lông chim chôn ở ngoài vườn.
Nơi chôn lông chim Vàng Anh lại mọc ra hai cây xoan đào, cành lá xum xuê, đẹp rợp bóng nên nhà vua sai lính mắc võng ở đó nằm chơi. Ngày nào vua cũng ra nằm hóng mát ở hai cây xoan đào.
Cám lại về nhà mách mẹ. Mụ dì ghẻ mách nước cho Cám là chặt cây làm khung cửi. Về đến cung, trong một hôm gió bão, Cám đã sai thợ đốn cây, lấy gỗ đóng khung cửi. Khi vua hỏi thì Cám trả lời rằng:
- Cây bị đổ là do bão. Thiếp sai thợ chặt làm khung cửi để dệt áo cho bệ hạ.
Thế nhưng khi Cám ngồi vào dệt thì lúc nào cũng nghe thấy tiếng khung cửi như đang rủa mình:
Cót ca cót két
Lấy tranh chồng chị.
Chị khoét mắt ra
Cám sợ hãi, sau khi về nhà mách mẹ thì đem đốt khung cửi, đem tro đã đốt đem đổ ở lề đường cách xa hoàng cung. Từ đồng tro lại mọc lên một cây thị. Đến mùa ra trái, cây thị chỉ đậu được đúng một quả nhưng lại tỏa mùi hương thơm ngát. Một bà lão bán hàng nước gần đó khi đi qua ngửi thấy mùi thơm và nhìn thấy quả thị trên cành cao bèn giơ bị ra và nói lẩm bẩm:
- Thị ơi thị rụng bị bà. Bà để bà ngửi chứ bà không ăn.
Khi bà lão vừa nói dứt lời thì quả thị rơi ngay xuống bị. Về nhà, bà lão cât trong buồng, thỉnh thoảng lại vào ngắm nghía, ngửi mùi thơm. Cứ mỗi ngày khi bà lão đi chợ về thì đã thấy nhà cửa gọn gàng tinh tươm, cơm ngon canh ngọt dọn ra sẵn nên lấy làm lạ lắm. Vì thế, một hôm bà lão giả vờ đi chợ, đến nửa đường thì trở về, lén rình ở bụi cây sau nhà. Bà thấy Tấm chui ra từ quả thị, cầm chổi quét dọn nhà cửa, vo gạo thổi cơm, hái rau nấu canh. Thấy vậy bà lão mừng quá, xô cửa vào ôm lấy Tấm, xé vụn vỏ thị.
Từ đó, Tấm ở với bà lão hàng nước và giúp những việc nhà cho bà bán hàng. Trong một lần nhà vua đi vi hành liền ghé vào quán nước của bà lão. Bà lão mang trầu nước dâng lên vua. Khi nhìn thấy miếng trầu têm cánh phượng, vua lại nhớ tới ngày trước vợ mình têm trầu cũng giống hệt như vậy, liền hỏi:
- Bà ơi, trầu này ai têm mà khéo vậy?
- Trầu này là do con gái bà têm - Bà lão thật thà đáp.
Nhà vua bèn ngỏ ý muốn gặp con gái bà lão. Khi Tấm vừa xuất hiện, vua nhận ra vợ mình ngày trước thì vui mừng lắm, nghe bà lão kể lại sự tình rồi đưa kiệu rước Tấm về trong cung.
Cám thấy Tấm trở về và được vua yêu thương như xưa thì không khỏi sợ hãi. Một hôm, Cám hỏi chị:
- Chị Tấm ơi chị Tấm, chị làm thế nào mà đẹp thế?
Tấm không đáp, chỉ hỏi lại:
- Có muốn đẹp không để chị giúp?
Cám bằng lòng ngay. Tấm sai quân hầu đào một cái hố sâu và đun một nồi nước sôi. Tấm bảo Cám xuống hố rồi sai quân hầu giội nước sôi vào hố. Cám chết. Mụ dì ghẻ thấy vậy cũng lăn đùng ra chết...
Bài học rút ra từ truyện cổ tích Tấm cám
- Cái thiện luôn có một sức sống mãnh liệt, không bao giờ chịu khuất phục và đầu hàng trước cái ác.
- Xã hội luôn công bằng và công lý sẽ được thực hiện. Những người lao động chăm chỉ, hiền lành, tốt bụng sẽ được hưởng hạnh phúc; kẻ tham lam, độc ác sẽ bị trừng trị. Điều này đúng với triết lý: “Ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác”.
0 Comments